Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

VHO-Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XIII đều xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng - Anh 1

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1. Quan điểm lớn, quan trọng của Đảng tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng 1.1. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người

 Đại hội của Đảng XIII khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[1]. Để làm được điều này, cần khơi dậy động lực tinh thần to lớn, vô song của dân tộc, con người Việt Nam; khát vọng xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy và phát huy giá trị văn hóa, tài năng, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, sức mạnh của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và là nguồn lực nội sinh, là động lực quan trọng. Phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, đồng thuận xã hội, ý chí tự cường, tự hào dân tộc.

 Đại hội XIII của Đảng yêu cầu nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Khai thác và phát huy cao nhất các giá trị tốt đẹp, bền vững của văn hóa, con người và gia đình Việt Nam. Nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam trong sự nghiệp Đổi mới và hội nhập quốc tế. Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp nhằm xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc với việc xây dựng con người, phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng, bản sắc văn hóa dân tộc cho mọi người Việt Nam, đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý. Khuyến khích các tìm tòi mới trong sáng tạo văn hóa, làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mọi người Việt Nam; làm cho văn hóa thấm sâu vào trong toàn bộ đời sống và các hoạt động xã hội; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng toàn diện là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung; đức tính cần cù, sáng tạo; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...

 Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát triển nhanh và bền vững đất nước phải chú trọng vào nhân tố con người; lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.  Coi trọng giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa dân tộc. Thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc của con người Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện các giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới phát triển toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế...

 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”. Đó là tâm lý và tập quán tiểu nông, là tính dựa dẫm, ỷ lại, an phận thủ thường, là sự ích kỷ, hẹo hòi, đố kỵ, thiếu ý thức hợp tác, thiếu ý thức tôn trọng pháp luật. Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, chúng ta đứng trước cơ hội và thách thức để bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đấu tranh chống các khuynh hướng đồng hoá, nô dịch về văn hoá. Coi trọng việc chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu có, tiên tiến văn hóa dân tộc mình. Phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển bền vững đất nước. “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển”. Thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, phúc lợi văn hóa, an ninh văn hóa, an ninh con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tǎng đầu tư của nhà nước và xã hội cho phát triển sự nghiệp vǎn hóa; đổi mới cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Hoàn thiện và bổ sung các cơ chế chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa đúng định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”; “Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số”. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, văn hóa số; coi trọng phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài...Các khái niệm, đúng hơn là quan điểm “Đổi mới sáng tạo”, “đổi mới sáng tạo quốc gia” lần đầu được nêu lên trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, đổi mới sáng tạo (Innovation) là việc tạo ra và ứng dụng các thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa, sức cạnh tranh của quốc gia và tham gia nhiều hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Đó là quá trình biến các ý tưởng, công nghệ, tri thức thành giá trị, của cải. Tận dụng thật tốt và kịp thời các thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối (Blockchain)... nhằm thay đổi mô thức sản xuất, kinh doanh và phát triển văn hóa. “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”; “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”; đầu tư phát triển mạnh ngành công nghiệp văn hóa, mở rộng thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa trong nước và quốc tế. “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, phấn đấu đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

 Sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam cần gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng môi trường văn hóa đạo đức lành mạnh trong cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị; kiên quyết, kiên trì ngăn chặn và xử lý nghiêm các biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong Đảng và ngoài xã hội. Phải thực sự xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

 1.2. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng - Anh 2

Sau thành công tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890 -19.5.2021) và các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng của đất nước năm 2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Sau khi đánh giá tổng quát về tình hình thế giới và trong nước, đề cập đến vấn đề văn hóa và con người, đồng chí Nguyễn Phú Trọng viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi” .

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội” .

2. Những vấn đề đang đặt ra và xu thế phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới

2.1. Những vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa

 2.1.1. Trên phương diện lý luận

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đường lối lý luận của Đảng về phát triển văn hóa ngày càng sâu sắc, cụ thể hơn, xem xét văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, thuộc đời sống tinh thần, quan hệ mật thiết với sự phát triển con người toàn diện. Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong việc xác định hướng đi sắp tới của văn hóa phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của Internet, đặc biệt là mạng xã hội; sự tác động từ mặt trái, tiêu cực của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa giai đoạn mới đến sự phát triển văn hóa. Đang hiện diện hai thực tế trái ngược nhau: một mặt, lý luận văn hóa chưa cập nhật, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách do thực tiễn đặt ra nhưng công tác lý luận chưa trả lời được, hoặc trả lời chưa thuyết phục. Mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều hiện tượng văn hóa diễn ra một cách tự phát, thiếu kiểm soát và điều chỉnh khiến cho việc chỉ đạo, quản lý trong thực tiễn  lúng túng, thụ động.

Vận dụng lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng con người, phát triển văn hóa: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta coi văn hóa là hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tức là ta nhận rõ hơn vai trò quan trọng của văn hóa trong việc định hướng, tác động đến nền kinh tế thị trường; phải làm sao để mỗi bước phát triển kinh tế phải gắn với mỗi bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật vốn dễ xẩy ra.

Đổi mới, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, của cả xã hội về vị trí, vai trò rất quan trọng của văn hóa trong sự phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trong nhận thức mới và toàn diện không chỉ là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là sức mạnh nội sinh của dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh.

Việc xác định rõ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam, hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới là để xác định mục tiêu, cách thức hành động, ứng xử của con người trong việc điều tiết sự phát triển của xã hội. Đối với nhiều quốc gia, hệ giá trị văn hóa và con người trở thành kim chỉ nam trong cuộc sống, là động lực và mục tiêu phấn đấu của từng cá nhân. Hệ giá trị đó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc và khát vọng được đại đa số thành viên trong xã hội chấp nhận, cổ vũ và hướng tới. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chúng ta rất cần xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị con người Việt Nam và hệ giá trị gia đình Việt Nam tiến bộ, nhân văn, hạnh phúc để định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, của cộng đồng và cả dân tộc.

2.1.2. Trên phương diện thực tiễn

Xử lý mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với sự phát triển đồng bộ của nền kinh tế, với sự đầu tư còn hạn chế của Nhà nước và nguồn lực, tiềm lực kinh tế còn hạn hẹp của người dân. Nền kinh tế thị trường được điều tiết bởi quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh bao gồm các tác động tích cực và tiêu cực đối với văn hóa. Vì văn hóa được coi là lĩnh vực đặc biệt, nhạy cảm, một số lĩnh vực gắn với phúc lợi xã hội, quyền tiếp cận, hưởng thụ của người dân nên luôn cần có sự điều tiết từ phía Nhà nước để tránh tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường. Đó là việc một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật bị “thương mại hóa”, tầm thường hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.

Xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao, đa dạng và khắt khe của nhân dân và khả năng đáp ứng có hạn của đội ngũ sáng tác, biểu diễn và quản lý văn hóa. Từ đó dẫn đến việc người dân tìm đến với các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật kém chất lượng, nặng về giải trí đơn giản, thậm chí các sản phẩm văn hóa xa lạ, lạc long của nước ngoài, làm tổn thương đến phong tục, tập quán, lối sống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến nhận thức, thị hiếu, lối sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ.

Giải quyết hài hòa mối tương quan giữa mục tiêu nhân văn của văn hóa với những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường.  Sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có những thuộc tính của hàng hóa, nhưng luôn có tính đặc biệt vì nó liên quan đến đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, tình cảm, tinh thần của con người. Nhiều sản phẩm văn hóa mang tính công ích, chưa hẳn phù hợp với thị trường cạnh tranh khắc nghiệt nhưng cần phải bảo vệ vì là hồn cốt dân tộc, giúp định hướng phát triển nhân cách con người, gìn giữ đạo đức cho xã hội. Việc giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ này sẽ giúp xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện con người - mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, giữ gìn và phát triển, truyền thống và hiện đại. Đây là những mối quan hệ rất phức tạp, đòi hỏi cần có những quan điểm, cách làm vừa mang tính nguyên tắc, toàn diện, xuyên suốt vừa linh hoạt theo loại từng hình, đối tượng, hoàn cảnh cụ thể. Hài hòa lợi ích các bên liên quan, kiên định mục tiêu bảo vệ các giá trị văn hóa cơ bản, tránh sa vào các mục tiêu ngắn hạn, thực dụng; biết gìn giữ, phát huy, tiếp thu có chọn lọc... là những vấn đề đang đặt ra trong phát triển văn hóa giai đoạn hiện nay.

Phát triển hài hòa, đúng mức giữa văn hóa tinh hoa và văn hóa đại chúng. Văn hóa đại chúng phù hợp với nhiều người, với thị trường nhưng văn hóa tinh hoa giúp nâng cao và định hướng cho sự phát triển văn hóa đất nước. Văn hóa tinh hoa chính là những đỉnh cao sáng tạo nhưng có thể kén khán giả, ít ưu thế thị trường, cần sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước, trong khi đó, văn hóa đại chúng là bộ mặt đương đại của văn hóa, gần gũi, dễ ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy, chính sách phát triển văn hóa tinh hoa và văn hóa đại chúng cần có sự phân biệt đúng mức, phù hợp với hai loại hình, vừa tạo điều kiện sáng tạo văn hóa, định hướng thẩm mỹ, vừa thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân.

Xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và mở cửa, hội nhập về văn hóa với thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ gìn văn hóa dân tộc cũng là một hình thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời tạo ra lợi thế cho đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những ví dụ gần đây cho thấy, các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật càng có nhiều dấu ấn bản sắc văn hóa dân tộc càng tạo được lợi thế trong quá trình chinh phục thị trường quốc tế. Chính sự khác biệt được tạo ra bởi văn hóa đã tạo nên tính hấp dẫn cho không chỉ sản phẩm văn hóa, nghệ thuật mà còn cả các sản phẩm hàng hóa nói chung. Khi mở cửa, hội nhập quốc tế, chúng ta cần giữ vững bản lĩnh về văn hóa, bản sắc dân tộc để giao lưu, hội nhập mà không bị đồng hóa, không bị hòa tan.

 2.2. Bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa Việt Nam

2.2.1. Bối cảnh trong nước

Quá trình đổi mới vận dụng cơ chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển văn hóa, xây dựng con người. Quá trình đó đã đưa nước ta từ một nước nghèo, nhiều mặt lạc hậu, thu nhập bình quân đầu người dưới 100 đô la Mỹ trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng 25 năm. Tỷ lệ dân nghèo giảm mạnh từ hơn nửa dân số (58% năm 1993) xuống 4,8% vào năm 2020; các chỉ số an sinh xã hội khác cũng được cải thiện đáng kể. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường làm cho tính tích cực xã hội được phát huy, các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa trở nên năng động, đa dạng và phong phú hơn, nhưng cũng tác động mặt tiêu cực đến nhiều lĩnh vực xã hội, trong đó rõ nhất là văn hoá.

Chúng ta phát triển kinh tế tri thức, xã hội số, quốc gia khởi nghiệp, chính phủ điện tử, tiếp tục hội nhập sâu rộng với thế giới đòi hỏi phải có chiến lược phát triển văn hóa phù hợp. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 tạo những tiền đề quan trọng cho công cuộc phát triển văn hóa, làm cho văn hóa là nền tảng, là mục tiêu, là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình này tạo tiền đề để các ngành văn hóa, văn học, nghệ thuật phát huy tối đa sức sáng tạo, những phương thức biểu đạt mới và hiện đại chưa từng có trong lịch sử nhân loại, đặt ra cả cơ hội và thách thức trong quá trình lãnh đạo và quản lý văn hóa.

Sự tham gia tích cực và chủ động của người dân, của cộng đồng, của doanh nghiệp vào các hoạt động văn hóa, nghệ thuật tạo thêm nguồn lực tinh thần và vật chất của xã hội cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nhiều di tích, công trình tôn giáo, tín ngưỡng được tu bổ, xây dựng mới; các loại hình nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc…có sự tham gia tích cực từ các lực lượng ngoài nhà nước. Nhiều doanh nghiệp hỗ trợ, tài trợ cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và văn hóa, nghệ thuật cũng góp phần tuyên truyền, quảng bá cho doanh nghiệp.

Sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là Internet đã và đang trở thành phương tiện quan trọng trong việc truyền bá các sản phẩm văn hóa, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và đạo đức, lối sống của xã hội. Sự phát triển của Internet, hoạt động của các trang mạng xã hội đã hình thành nên những kênh truyền thông đa diện, đa màu, góp phần bày tỏ ý kiến, quan điểm sáng tạo, sáng tác khác nhau, góp phần thúc đẩy tự do biểu đạt, đa dạng văn hóa trong xã hội. Tuy nhiên, mặt trái, mặt tiêu cực về hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa cũng từ đây tác động xấu đến xã hội, nhất là giới trẻ.

Dưới tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là phương tiện truyền thông mới khiến con người quan tâm đến lợi ích cá nhân nhiều hơn, chạy theo lối sống nghiêng lệch về giá trị vật chất, những sản phẩm văn hóa ngoại lai. Nhiều vấn đề như tham nhũng, tiêu cực, tệ nạn chưa được giải quyết có hiệu quả. Một bộ phận cán bộ, đảng viên không gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và chế độ. Đây là những nguyên dân dẫn đến khủng hoảng trong nhận thức và định hướng lối sống trong giai đoạn hiện nay.

2.2.2. Bối cảnh quốc tế

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế giới dựa trên các nền tảng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế tri thức, kinh tế số và kinh tế xanh. Đây là xu thế ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của văn hóa, đòi hỏi sự thay đổi trong tư duy phát triển, quản lý văn hóa. Các ứng dụng công nghệ thực tế ảo, trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, in 3D và nhiều hướng tư duy mới buộc Việt Nam phải thay đổi trong hoạt động quản lý di sản, tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu thay đổi của chính văn hóa nghệ thuật và mong muốn của xã hội. Sáng tạo trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của nhiều quốc gia. Khai thác kinh tế sáng tạo, các ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo để tạo ra kinh tế số và kinh tế xanh đang là xu hướng lớn được các quốc gia sử dụng nhằm gia tăng sức mạnh mềm đối với các quốc gia khác từ đó tạo ra các lợi thế về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Những thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình sáng tạo, tiếp nhận và hưởng thụ văn hóa.

Thế giới phát triển theo hướng đa cực, với nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng có hai xu hướng chủ yếu là quốc tế hóa và khu vực hóa, thông qua các cơ chế hợp tác (và cạnh tranh) về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Tương quan lực lượng giữa các nước lớn sẽ tiếp tục có những thay đổi, mặc dù Mỹ vẫn duy trì ngôi vị siêu cường số một nhưng các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc, cũng đang cạnh tranh quyết liệt với Mỹ, châu Âu để tạo ra các cực phát triển của thế giới. Đồng thời, các khu vực cũng tăng cường các liên kết nội khối cũng như tạo ra các cơ chế hợp tác liên khu vực, như hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một ví dụ. Việt Nam luôn luôn coi quan hệ quan hệ hợp tác quốc tế, đặc biệt là với các nước ASEAN, là đối tác tin cậy, chủ động tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế để tạo ra nguồn lực, uy tín và vị thế cho đất nước. Vì thế, hợp tác quốc tế về/bằng văn hóa để quảng bá hình ảnh đất nước, tạo điều kiện phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội là một nhiệm vụ quan trọng.

Dân chủ hóa, toàn cầu hóa là một tiến trình diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng trên toàn thế giới với sự phổ biến rộng rãi triết lý phát triển đa dạng hóa, đa cực. Quá trình hội nhập quốc tế giúp chúng ta tiếp cận nhiều hơn đến các quan điểm, triết lý phát triển, từ đó có thêm cơ hội lựa chọn con đường phát triển cho riêng mình, phù hợp với bối cảnh chung của thế giới. Toàn cầu hóa trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phép các quốc gia đang phát triển có thêm tiếng nói vào những quyết sách lớn của thế giới, từ đó đảm bảo quá trình dân chủ hoá được thực hành rộng rãi.

Thế giới ngày nay cũng đang đối mặt với những khuynh hướng cực đoan, dân tộc hẹp hòi, dân túy, ly khai, biệt lập; sự phân cực trong xã hội và khoảng cách giàu - nghèo ngày càng sâu sắc; các mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, số hóa đã và đang tác động mạnh tới bản sắc và văn hóa dân tộc; các thảm họa về dịch bệnh, môi trường, thiên tai, các tác động của quá trình biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng là những vấn đề mang tính toàn cầu, Việt Nam chịu tác động rất mạnh, đòi hỏi các quốc gia phải hợp tác để xử lý nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của chúng.

An ninh phi truyền thống, đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới tác động lớn lên kinh tế, xã hội và cả đời sống văn hóa và tinh thần của người dân, đã vượt qua mức của một cuộc khủng hoảng thông thường, đặt ra nhiều vấn đề lớn ở khắp các quốc gia trên thế giới… Đối phó với những vấn đề vừa nêu đòi hỏi sự thay đổi trong tư duy phát triển, chứ không chỉ dừng ở việc ứng phó thông qua sửa đổi chính sách đơn thuần. Phát triển văn hóa cũng cần được đặt trong bối cảnh thay đổi chung đó để bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

 2.3. Xu thế phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới

 2.3.1. Văn hóa trở thành một sức mạnh, nền tảng tinh thần để phát triển kinh tế - xã hội. Xu hướng coi trọng văn hóa và gắn văn hóa với phát triển, coi văn hóa là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững ngày càng được các quốc gia quan tâm. Quá trình toàn cầu hóa về kinh tế có nguy cơ dẫn đến xung đột với việc bảo tồn bản sắc và đa dạng văn hóa trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời cũng xuất hiện khả năng gắn chặt quá trình phát triển kinh tế với quá trình phát triển văn hóa. Kinh tế không thể phát triển bền vững nếu không đặt rõ vấn đề văn hóa trong mỗi hoạt động kinh tế.

2.3.2. Toàn cầu hóa về văn hóa là một xu thế khách quan cần chính sách phát triển phù hợp. Các quốc gia ngày càng đề cao bản sắc văn hóa dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hoá, đấu tranh chống khuynh hướng xâm lăng, đồng hóa về văn hoá; gắn kết vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa quốc gia, dân tộc với quá trình chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.

2.3.3. Quá trình dân chủ hóa văn hóa đã và đang là một xu hướng phát triển mạnh mẽ, trong đó chính sách đa dạng văn hóa là một trong những mục tiêu mà mỗi quốc gia đều hướng tới, bảo đảm cho các nhóm xã hội, các cá nhân được thể hiện quyền văn hóa của mình, được biểu đạt văn hóa của mình trong một bối cảnh xã hội tôn trọng các sáng kiến, các sáng tạo và biểu đạt văn hóa. Phát triển các văn hóa nhóm và văn hóa cá nhân là những xu thế sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Sự đa dạng của thị hiếu và cách tiếp cận ngày càng mạnh lên. Tăng cường khả năng tiếp cận của người dân thông qua các chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho văn hóa, tăng cơ hội học tập nâng cao tri thức cũng là một xu hướng được các quốc gia chú trọng.

2.3.4. Xu hướng phát triển văn hóa trong mối quan hệ với xây dựng con người cũng đang ngày càng phổ biến. Tri thức văn hóa trở thành một phần của vốn xã hội. Vốn văn hóa và vốn xã hội là hai nguồn lực quan trọng trong xã hội hiện đại để xây dựng con người. Nguồn lực trung tâm để phát triển văn hóa là con người, do đó, lấy phát triển nguồn lực con người làm mục tiêu trung tâm. Phát triển văn hóa luôn phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người đang là xu thế của thời đại.

2.3.5. Truyền thông số là phương tiện biểu đạt văn hóa mới trong một kỷ nguyên số, xã hội số, nền kinh tế số và công dân số. Các hình thức của sản phẩm văn hóa trong kỷ nguyên số sẽ vô cùng đa dạng, rất khó quản lý theo phương thức truyền thống. Trong bối cảnh đó, bên cạnh các hàng rào kỹ thuật, việc nâng cao nhận thức và kỹ năng quản lý quá trình tiếp nhận văn hóa, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân là vô cùng quan trọng nhằm nâng cao sức “đề kháng” và năng lực tự lựa chọn của mỗi cá nhân.

2.3.6. Phát triển văn hóa cá nhân và văn hóa nhóm sẽ là trọng tâm của quá trình phát triển văn hóa đô thị, trong khi đó, văn hóa cộng đồng ở khu vực nông thôn sẽ phải biến đổi và thích ứng theo hướng bảo tồn những giá trị cốt lõi, tiếp thu và tích hợp những yếu tố mới.

 2.4. Định hướng và giải pháp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

2.4.1. Định hướng

a. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khơi dậy khát vọng đưa đất nước phát triển hùng mạnh, phồn vinh.

b. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, là những chủ thể văn hóa có bản lĩnh, sáng tạo, với những phẩm chất yêu nước, đoàn kết, tài trí, nghĩa tình, dũng cảm, sáng tạo, kỷ cương, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

c. Xây dựng nền văn hóa số thích ứng với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số. Chú trọng đầu tư, phát triển công nghệ số trong lĩnh vực văn hóa. Số hóa các di sản văn hóa, các nguồn tài nguyên văn hóa nhằm tạo dựng nguồn dữ liệu số hóa về văn hóa Việt Nam. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo định hướng của nền kinh tế số. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật và hành lang pháp lý nhằm khuyến khích phát triển thị trường văn hóa số, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên không gian số. Có các biện pháp hạn chế, ngăn chặn các ảnh hưởng, tác động tiêu cực của văn hóa số đến đời sống xã hội, đặc biệt là với giới trẻ.

d. Xác lập quyền lực mềm quốc gia bằng văn hoá, với các chính sách phát triển hợp lý, trên cơ sở các giá trị đặc sắc, lợi thế cạnh tranh của văn hoá Việt Nam, tạo sức đề kháng trước sự gia tăng “sức mạnh mềm” của một số quốc gia.

 2.4.2. Một số giải pháp chủ yếu

a. Thực hiện tháng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớn nhân dân, nhất là thanh niên”.

Các hệ giá trị cần được hình thành trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống, thích ứng với các giá trị tiến bộ của thời đại, được điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ. Xác định các phẩm chất cốt lõi để triển khai các giải pháp phù hợp nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện: yêu nước, đoàn kết, có trách nhiệm công dân; có tri thức, thể chất; sống có đạo lý; có ý thức cộng đồng và tinh thần quốc tế.

b. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững.

Quán triệt nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò văn hoá và con người trong phát triển bền vững, trong đó xác định: Phát triển văn hoá và xây dựng con người là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền;

Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hoá và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng cấp; Phát huy năng lực, trách nhiệm người đứng đầu trong việc phát triển văn hoá, xây dựng con người của từng địa phương, bộ, ngành, đơn vị;

Tuyên truyền, giáo dục trong đảng viên và nhân dân nhận thức, vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp trong xây dựng văn hoá, phát triển con người;

Kiểm tra, giám sát, xử lý, khen thưởng phải đồng thời, thường xuyên trong các cấp với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về xây dựng văn hoá, phát triển con người.

c. Hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo vai trò kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người, tăng cường hiệu quả của các hệ thống thiết chế văn hóa.

Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hoá theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá ở Trung ương và địa phương, đề cao vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cấp cơ sở;

Quy định phạm vi can thiệp của nhà nước trong lĩnh vực văn hoá, tạo dư địa phù hợp cho sáng tạo và hưởng thụ văn hoá chính đáng của người dân. Nhà nước thực hiện chức năng kiến tạo phát triển văn hoá, con người, xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của con người, hài hoà và đóng góp cho xã hội;

Chuyển đổi hệ thống quản lý văn hoá chủ yếu từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế quản lý bằng luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ mô khác, hỗ trợ, tạo điều kiện môi trường phát triển văn hoá bền vững thích ứng phù hợp với thị trường văn hoá;

Tập trung đầu tư các thiết chế văn hoá quy mô quốc gia, đồng bộ hoá hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở, tạo hệ thống dịch vụ văn hoá công hiện đại, phù hợp đặc thù vùng, miền, dân tộc; ưu tiên đầu tư xây dựng, tổ chức hoạt động các thiết chế văn hoá cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát huy vai trò của chủ thể văn hoá trong xây dựng, tổ chức hoạt động tại các thiết chế văn hoá cơ sở, không áp đặt, khuôn mẫu; khuyến khích thành lập và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ phát triển, hoạt động các thiết chế văn hóa ngoài công lập.

d. Phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt

Xây dựng chính sách sử dụng cán bộ văn hoá hợp lý, phù hợp với chuyên môn, trình độ ở tất cả các cấp quản lý. Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân như chế độ lương, nhuận bút, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, chế độ đãi ngộ khác...;

Đầu tư phát triển các trường văn hoá nghệ thuật trên cả nước theo định hướng mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hỗ trợ đào tạo nghệ thuật khó, hiếm, đỉnh cao, nghệ thuật truyền thống. Khuyến khích nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia giảng dạy các ngành nghệ thuật đặc thù. Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cho học sinh các bộ môn nghệ thuật truyền thống dân tộc.

e. Xây dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tuỵ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên;

Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc;

Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

g. Phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước.

Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới nhằm cải thiện điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường;

Thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa gắn với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại; nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật trong chuỗi sản xuất sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa; phát triển mạng lưới doanh nghiệp, trong đó hình thành một số tập đoàn lớn về công nghiệp văn hóa ở các lĩnh vực truyền thông, điện ảnh, phát thanh và truyền hình, phần mềm và các trò chơi trực tuyến; Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa;

Xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm dịch vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài; có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình tham gia và phát triển thị trường quốc tế;

Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế tại Việt Nam trở thành các sự kiện thường niên, có uy tín khu vực và thế giới, thu hút sự tham gia của các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa nghệ thuật có uy tín, được đông đảo công chúng quan tâm.

h. Phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xây dựng con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam;

Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc;

Có cơ chế khuyến khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật với ý thức đầy đủ về trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng phát triển năng khiếu và tài năng trẻ.

k. Tập trung nguồn lực từ Nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người, ưu tiên nguồn lực cho vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách xã hội, đối tượng chịu thiệt thòi, cho một số loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại cần bảo tồn, phát triển.

Tăng đầu tư của Nhà nước cho văn hoá gắn với việc sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước; Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người;

Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn;

Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản;

Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư... có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hoá, công trình thể thao...) tạo điều kiện cho người dân tham gia hoạt động và hưởng thụ văn hóa, để không ai bị bỏ lại phía sau về văn hóa.

PGS.TS NGUYỄN THẾ KỶ 

Ý kiến bạn đọc