Kiên định lý tưởng XHCN: Sáng tạo lý luận và thực tiễn

VHO - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần đã khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Kiên định lý tưởng XHCN: Sáng tạo lý luận và thực tiễn - Anh 1

Từ nguyên tắc “dân tộc, khoa học, đại chúng” của Đề cương về văn hóa năm 1943 đã nâng lên thành xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”

Đó là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài gần 80 năm, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những biến cố lớn của đất nước và thế giới. 

Đó là 30 năm kháng chiến chống phong kiến, thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. 

Đó là gần 50 năm xây dựng kinh tế xã hội với sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, giáo điều hình thức, nâng lên mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, biện chứng và coi trọng hiệu quả kinh tế. 

Đó là  nền ngoại giao từ tập trung cho chống chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc, chuyển sang ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương với nguyên tắc “bốn không”. 

Đó là xây dựng nền văn hóa kế thừa “dân tộc, khoa học, đại chúng” nâng lên thành nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. 

Những biến đổi lịch sử đó là minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh kiên định lý tưởng XHCN cùng với sự sáng tạo về lý luận và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, những chuyển biến đó là con đường đầy chông gai. 

Kiên định lý tưởng XHCN

Có thể nói, con đường cách mạng Việt Nam đã được định hướng lý tưởng XHCN ngay từ năm 1920, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp cận với “Luận cương của Lênin về dân tộc và thuộc địa”. Thành quả đầu tiên mang ý nghĩa lịch sử trọng đại là sau mười năm (1930), Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với sứ mệnh lãnh đạo Cách mạng Việt Nam và sau 15 năm (1945) đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng tháng Tám giành lại độc lập, khai sinh nước Việt Nam DCCH. Một Nhà nước “dân chủ nhân dân” do Đảng Cộng sản cầm quyền lấy chủ nghĩa Marx-Lê nin làm nền tảng và  CNXH là lý tưởng và mục tiêu. 

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc trong điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ nhưng với niềm tin sắt đá vào lý tưởng XHCN, Việt Nam đã lần lượt đánh bại phát xít Nhật và hai đế quốc hùng mạnh nhất tế giới. 

Sau 21 năm, cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thắng lợi vẻ vang, thống nhất đất nước trong thắng lợi lịch sử đó có sự giúp đỡ nhiệt tình và to lớn của các nước trong hệ thống XHCN cùng với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Điều đó chứng tỏ sự đúng đắn và sáng tạo của chiến lược kết hợp nhuần nhuyễn sức mạnh của thời đại với ý chí độc lập dân tộc. Đó là sự kiên định lý tưởng XHCN và sự sáng tạo về lý luận và hoạt động thực tiễn.

Khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội chưa được bao lâu và còn đang phải khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm thì trật tự thế giới biến động đột ngột và rung lắc rất mạnh. Với sự kiện Liên Xô tan rã và hệ thống XHCN sụp đổ, hầu hết các nước XHCN chuyển sang hệ thống TBCN. Việt Nam mất đi chỗ dựa chiến lược về kinh tế và quốc phòng. Đồng thời, chính sách bao vây, cấm vận, cô lập ngoại giao đã gây không ít khó khăn cho ta…Trong bối cảnh bất lợi rất lớn ấy, nhiều người cho rằng Việt Nam sẽ buộc phải từ bỏ lý tưởng XHCN để hội nhập vào thế giới. Nhưng điều đó đã không xảy ra, đất nước vẫn kiên định là “Cộng hòa XHCN Việt Nam” do Đảng lãnh đạo.

Sáng tạo lý luận, linh hoạt phương pháp, kiên trì định hướng XHCN

Về lý luận, nguyên lý cơ bản của CNXH là chế độ công hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế kế hoạch, chỉ huy. Từ khi miền Bắc mới được giải phóng, đã bắt đầu xây dựng CNXH theo nguyên tắc đó. Đối với nông nghiệp, tất cả ruộng đất và nông cụ đều tập trung vào hợp tác xã nông nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp và thương nghiệp đều là quốc doanh, các ngành thủ công nghiệp cũng thành lập hợp tác xã. Nhìn chung, hầu như không còn hình thức kinh tế tư nhân từ quy mô nhỏ nhất là hộ gia đình. Mô hình kinh tế đó bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết và sau này có rất nhiều ý kiến phê phán chỉ trích cho rằng đó là  sự lạc hậu về lý luận dẫn đến quan liêu, giáo điều, kìm hãm năng xuất lao động và rối loạn về lưu thông phân phối theo kiểu bao cấp. 

Tuy nhiên, đó không hoàn toàn là sự lạc hậu về lý luận vì phải nhìn từ quan điểm lịch sử cụ thể để thấy mô hình kinh tế đó có vai trò lịch sử rất quan trọng đối với hình thức kinh tế thời chiến đòi hỏi nhà nước phải quản lý rất chặt chẽ các nguồn nhân lực và vật lực cho chiến tranh, buộc phải áp  dụng chế độ tem phiếu để bảo đảm những nhu cầu tối thiểu cho toàn dân và chỉ có như thế mới có thể thực hiện được khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả cho tiền tuyến”. Tuy nhiên, ngay trong khi phải áp dụng mô hình kinh tế thời chiến rất chặt chẽ, cũng đã có sự sáng tạo về lý luận và hoạt động thực tiễn. Đó là tư duy của Bí thư tỉnh Vĩnh Phú, người đề xuất chính sách “khoán hộ” trong các hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1966-1968 đã thúc đẩy năng xuất lao động và tăng sản lượng lương thực làm tiền đề cho những đổi mới về quản lý kinh tế sau  này.  

Khi đất nước đã chuyển sang thời bình nhưng mô hình kinh tế thời chiến vẫn tồn tại nên các khiếm khuyết cũ đã phát triển thành những lực cản của nền kinh tế đó là tình trạng “ngăn sông cấm chợ” và hình thành “thị trường chợ đen” do các tư thương thao túng. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện những sáng tạo về hoạt động thực tiễn. Cụ thể là Tổng Bí thư Trường Chinh đã trực tiếp chứng kiến và ủng hộ cách làm “bù giá vào lương” ở tỉnh Long An với hiệu quả rất rõ là xóa bỏ thị trường chợ đen, xóa bỏ dần chế độ bao cấp làm cơ sở thực tiễn và lý luận cho sự hình thành đường lối đổi mới.

Đường lối Đổi mới được khởi xướng từ 1986 là sự đột phá về tư duy lý luận với nội dung cơ bản là chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần - có cả tư nhân, vận  hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Về hình thức, so với mô hình kinh tế thời chiến có thêm hai yếu tố vốn là thuộc tính của CNTB: Một là kinh tế tư nhân, hai là cơ chế thị trường. Nhưng về bản chất không thay đổi vì  “định hướng XHCN ” vẫn là mục đích và lý tưởng. Trong khi đó, kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường có vai trò là phương tiện và biện pháp nhằm tăng cường lực lượng sản xuất của CNXH thông qua tăng năng xuất lao động và tăng của cải vật chất cho xã hội. Nói cách khác đây là sự thay đổi về chất của tư duy lý luận. Chuyển từ “mô hình XHCN hình thức” của thời chiến có biểu hiện giáo điều, nâng lên “mô hình XHCN biện chứng” coi trọng tăng cường lực lượng sản xuất và năng xuất lao động. Vì đó là yếu tố quyết định sự thành công của CNXH.

Trên mặt trận văn hóa, từ nguyên tắc “dân tộc, khoa học, đại chúng” của Đề cương về Văn hóa năm 1943 đã nâng lên thành xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đó là sự sáng tạo về lý luận, vẫn bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời hướng đến xây dựng nền văn hóa hiện đại.

Trên mặt trận ngoại giao cũng có sự phát triển lý luận biện chứng: Từ đường lối ngoại gia thời chiến nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của phe XHCN và các lực lượng yêu chuộng hòa bình thế giới nhằm chống chiến tranh xâm lược đã phát triển thành xây dựng nền ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương, làm bạn với các nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, gác lại quá khứ hướng đến tương lai. Đồng thời tuyên bố chính sách quốc phòng “bốn không”(không có căn cứ quân sự của nước ngoài, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này chống nước kia, không đe dọa và sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế).

Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta ngày nay được thế giới nhìn nhận, Việt Nam là một trong những nước ổn định chính trị nhất, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất châu Á,  có sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài, hấp dẫn du lịch, có nền văn hóa phát triển đa dạng phong phú và có những con người thân thiện, cởi mở. Đó chính là thành quả của sự kiên định lý tưởng XHCN cùng với bản lĩnh sáng tạo về lý luận và năng động, linh hoạt trong hoạt động thực tiễn dưới sự lãnh đạo nhất quán, trực tiếp  của Đảng. Thực tế đó tự nó là sự bác bỏ mạnh mẽ nhất đối với những luận điệu xuyên tạc lý tưởng CNXH và phủ nhận năng lực lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam  

TS NGUYỄN HỮU NGUYÊN

Ý kiến bạn đọc