Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến- "Pho sử sống" của đồng bào Raglai

VHO - Ông là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến, người dành cả cuộc đời để sưu tầm, níu giữ, bảo tồn văn hóa của đồng bào Raglai - tiếng hồn của núi.

Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến-

Cả cuộc đời nghệ nhân Mấu Quốc Tiến gắn với công tác sưu tầm, lưu giữ và bảo tồn văn hóa cùa đồng bào Raglai

 

Người đảng viên nặng lòng lưu giữ, bảo tồn văn hóa cùa đồng bào Raglai

Sinh ra trên vùng đất Khánh Sơn hùng vĩ; lớn lên trên lưng của bà, của mẹ của tiếng ru dìu dặt, của những đêm hội cồng chiêng vang vọng núi rừng; để rồi, những thanh âm ấy ăn sâu vào tâm hồn, không bao giờ phai nhạt trong tâm trí ông... Vì vậy, dù mơ ước lớn lên sẽ thành một thầy giáo - làm người gieo con chữ, đem lại kiến thức cho các thế hệ trẻ mai sau, cùng đồng bào xây dựng, phát triển vùng đất Khánh Sơn với núi rừng trùng điệp… nhưng ông lại bất ngờ rẽ ngang, làm cán bộ văn hóa. Để rồi trọn cuộc đời lăn lộn khắp các cánh rừng, con suối, khắp các bản làng để sưu tầm, bảo tồn văn hóa của đồng bào Raglai. Với ông, việc sưu tầm, tìm hiểu và biên soạn lại những di sản văn hóa của đồng bào Raglai là niềm say mê, trách nhiệm của một đảng viên, một người con của buôn làng.

Tôi biết ông từ khi mới bước chân vào nghề báo. Vậy mà cũng đã gần 20 năm. Từng theo chân ông đến nhà các nghệ nhân để thâu băng các làn điệu dân ca, đến các lớp dạy chữ viết Raglai - truyền dạy sử thi; say mê nghe ông nói về văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào, về các làm điệu dân ca, các lễ hội, say mê nghe ông đàn các điệu đàn chapi…

Vậy mà lâu lắm rồi tôi mới có dịp quay trở lại Khánh Sơn - vùng đất đang trên đà khởi sắc. Dù vẫn là một trong những huyện nghèo của cả nước, nhưng giờ đây, vùng đất giàu truyền thống cách mạng Khánh Sơn đang đổi thay từng ngày. Những cánh rừng nghèo, những vườn chuối xác xơ ngày nào đang được thay thế bằng những vườn cây ăn trái xanh mướt, bạt ngàn. Những vườn sầu riêng cơm vàng hạt lép nổi tiếng thơm ngon, đã được chính quyền địa phương đăng ký thương hiệu sản phẩm độc quyền đang giúp cho vùng đất nơi đây thay da đổi thịt, vươn lên thoát nghèo và làm giàu… Chỉ có điều, trái ngược với sự phát triển của kinh tế, văn hóa của đồng bào nơi đây đang trên đà mai một, mất dần đi bản sắc!

Chiều Tô Hạp mưa sầm sập. Tôi ngồi cùng nghệ nhân Mấu Quốc Tiến trong căn nhà nhỏ. Bên li trà nghi ngút khói và bếp lửa rực hồng. Ông cười thật thà, chân chất: “Nghỉ hưu mấy năm nay rồi. Nhưng vẫn là Phó Bí thư chi bộ của thôn đấy… Già rồi, nhưng mình vẫn tham gia các hoạt động văn hóa của huyện, vẫn làm công việc sưu tầm, bảo tồn văn hóa của đồng bào cho đến khi nào nhắm mắt xuôi tay…”, ông nói vui khi tôi kể lúc sáng có ghé Phòng bảo tồn, bảo tàng của huyện mà không gặp ông. Chợt nghĩ, cả huyện Khánh Sơn, thậm chí cả tỉnh Khánh Hòa này, chắc giờ chỉ còn mỗi ông đam mê với công tác sưu tầm, bảo tồn văn hóa của đồng bào Raglai, ông không làm thì ai làm!

…Mình sinh năm 1959. Chả nhớ ngày tháng nữa. Hồi nhỏ mình tham gia làm liên lạc, nhà mình là nơi cất giữ vũ khí, đạn dược của du kích; rồi cùng với đồng bào tăng gia sản xuất, cung cấp lương thực cho căn cứ cách mạng. Sau giải phóng mình đi học bổ túc văn hóa, học giáo viên cấp tốc; về huyện làm giáo viên rồi Phó hiệu trưởng trường bổ túc văn hóa (trường Dân tộc nội trú huyện sau này). Rồi được cử đi đào tạo ở Trường Trung cấp chính trị tỉnh; trở về, mình tham gia thành lập trường Đảng huyện (nay là Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện). Hồi ấy cứ nghĩ làm giáo viên để dạy cái chữ cho con em, giúp đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Nhưng cái máu văn hóa nó như có sẵn trong con người mình rồi. Vừa đi dạy, mình vừa tham gia các hoạt động văn hóa. Từ đầu những năm 1980, mình đã cùng với một số nhà nghiên cứu tham gia sưu tầm và bảo tồn văn hóa Raglai. Lãnh đạo huyện thấy mình có năng khiếu, đam mê với công tác văn hóa nên năm 1989, mình được điều sang công tác tại Phòng Văn hóa của huyện. Để rồi cả cuộc đời mình gắn bó với công tác sưu tầm, bảo tồn và gìn giữ các nét văn hóa độc đáo của đồng bào…; ông nói như hồi tưởng, như giải bày.

Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến-

Lễ Bỏ mả của đồng bào Raglai đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia

Nghệ nhân ưu tú - "Pho văn hóa sống của đồng bào Raglai”

Người Raglai bình dị, chân chất, quanh năm gắn bó với núi rừng, sông suối nên tình cảm và phóng khoáng lắm. Chính vì vậy, dân tộc mình có nhiều nét văn hóa hết sức độc đáo và phong phú. Lịch sử của dân tộc Raglai gắn với các làn điệu dân ca, sử thi, các nhạc cụ như mã la, đàn chapi, các lễ hội được mùa, ăn đầu lúa mới, lễ cưới, ma chay, lễ bỏ mã…Nhiều lắm. Nhưng độc đáo nhất vẫn là tiếng mã la, là đàn chapi, đàn đá. “Lễ hội của người Raglai mà thiếu đi tiếng mã la, thiếu đi tiếng đàn đá thì không còn là lễ hội. Còn đàn chapi thì gắn liền với đời sống của người dân, trong mọi lúc vui buồn, săn bắt, lao động sản xuất…”, nghệ nhân Mấu Quốc Tiến chia sẻ. “Thế nhưng, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, sự giao thoa của các nền văn hóa khác đang làm cho văn hóa của đồng bào Raglai thêm mai một. Lớp trẻ bây giờ chỉ thích nhạc xập xình, thích uống rượu... chứ không còn thích đánh mã la, chơi đàn chapi nữa. Chưa nói đến chữ viết, đến các làn điệu dân ca, sử thi thì càng ít người biết đến...”, giọng ông trầm lắng.

Mưa vẫn xối xả. Cả bầu trời như muốn nghiêng trút hết nước xuống cái thị trấn nhỏ giữa núi rừng trùng điệp này. Ông trầm ngâm: Hồi ấy nghĩ đơn giản, nếu muốn gìn giữ văn hóa của dân tộc mình thì phải có chữ viết, vì vậy, khoảng năm 1984, mình cùng với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Sang, Trần Vũ… đã dày công nghiên cứu và hoàn thành bộ chữ viết - mẫu tự latinh tiếng Raglai. Đó là năm 1986. Có chữ viết rồi thì mình bắt tay đi sưu tầm các làn điệu dân ca, sử thi, thành ngữ, tục ngữ... của người Raglai.

Liên tiếp những năm sau đó, ông cho ra đời hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan đến chữ viết của đồng bào Raglai như: Chữ viết Raglai với việc bảo tồn phát triển văn hóa dân gian Raglai; Thành ngữ, tục ngữ Raglai; Tri thức bản địa của người Raglai ở Khánh Hòa; Khánh Hòa - diện mạo một vùng đất (10 tập); Tín ngưỡng người Raglai ở Khánh Hòa; Yếu tố trầm tích trong văn hóa của người Raglai ở Khánh Hòa; các tập truyện sử thi của đồng bào Raglai…Trong đó, đáng chú ý là trong khoảng thời gian 10 năm (từ năm 1999-2009), Phối hợp với Viện Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, ông cho ra đời 4 bộ sử thi: Akhàt jucar Raglai, Udai- Ujac, Amã Chisa - Amã cuvau Vongcơi và Awơi nãi tilơr dày hơn 10.000 trang, viết bằng song ngữ Việt - Raglai… Để có được những tác phẩm này, ông đã dày công, nhiều năm lặn lội đi khắp các buôn làng, ngồi thâu đêm nghe các già làng hát để ghi âm, thâu hơn 300 băng catsess, rồi lại về giã băng, dịch ra tiếng Việt, tiếng Raglai. Không quá khi nói đó là công trình để đời của ông…

Đêm đã buông từ lúc nào. Núi rừng tĩnh mịch. Ngoài kia chỉ còn đêm tối và cơn mưa dường như làm cho màn đêm thêm lạnh giá. Ông với tay cời than cho bếp lửa thêm rực hồng. Giọng ông có phần phấn khích, tự hào: Cách đấy mấy năm, sau nhiều nỗ lực, lễ Bỏ mã của đồng bào Raglai ở Khánh Hòa đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Điều này không chỉ mình mà khiến người dân nơi đây rất vui mừng. Để hoàn thành hồ sơ, mình cùng một số cán bộ, ban, ngành của huyện đã bỏ không ít công sức sưu tầm, chuẩn bị tư liệu, phục dựng về nghi lễ này.

Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến-

Nghệ nhân Mấu Quốc Tiến - người đảng viên trọn đời làm theo lời Bác

Còn nhớ năm 2012, khi tổ chức phục dựng lễ Bỏ mã của đồng bào, trong suốt nhiều ngày, ông cùng các nghệ nhân, cộng sự tất bật từ sáng tới đêm để tổ chức lễ bỏ mã theo đúng nghi lễ, bản sắc văn hóa của đồng bào mình. Lễ Bỏ mả được tổ chức trong 3 ngày (vào khoảng tháng 3 và 4 hằng năm). Lễ này được xem là quan trọng nhất của đồng bào Raglai - ngày chia tay vĩnh viễn giữa người sống và kẻ chết, để người đã khuất thực sự trở về cõi vĩnh hằng. Chủ lễ chuẩn bị rượu cần, làm nhà mồ, mời bà con họ hàng gần xa về chia tay người chết... “Lễ có nhiều nghi thức, nhiều hoạt động văn hóa tín ngưỡng độc đáo và đã được lưu truyền khá nguyên vẹn từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, ngày nay một số nghi lễ không còn giữ đúng bản chất mà có sự thay đổi theo sự phát triển của xã hội, giao thoa văn hóa”, ông Tiến chia sẻ.

Năm 2015, ông cùng một số già làng, nghệ nhân hát sử thi đã được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Tuy nhiên, từ đó đến nay các nghệ nhân vẫn chưa được hưởng các chế độ gì. Một số nghệ nhân cao tuổi đã về với núi rừng, hiện cả huyện Khánh Sơn, ngoài ông thì chỉ còn 2 người là nghệ nhân Cao Thị Thanh và Cao Thị Quang (xã Thành Sơn) là biết hát sử thi, thuộc các làn điệu dân ca, thành ngữ, tục ngữ của đồng bào Raglai. Tuy nhiên, hiện 2 cụ cũng đã cao tuổi, nếu mai này, 2 nghệ nhân này về với đất trời, thì công tác bảo tồn, văn hóa Raglai sẽ tổn thất rất nhiều.

Không thể để văn hóa của đồng bào mình mai một theo thời gian, trăn trở ấy đã thôi thúc nghệ nhân Mấu Quốc Tiến dù đã cao tuổi, đã nghỉ hưu nhưng vẫn thường xuyên rong ruổi, băng rừng, vượt suối sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn văn hóa. “Sử thi Raglai là những câu chuyện kể về các anh hùng chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, đấu tranh sinh tồn và chống giặc ngoại xâm. Các anh hùng của người Raglai là những chàng trai vạm vỡ như Udai-Ujàc, là người đội lốt thú như Amã Chisa - Amã cuvau Vongcơi. Cũng có khi, đó là một phụ nữ như Awơi nãi tilơr đấu tranh chống lại thần rừng, thần biển bảo vệ đồng bào...”, ông hào hứng.

Theo ông Tiến, những câu chuyện trong sử thi được truyền từ đời này sang đời khác bằng nhiều điệu hát. Chẳng hạn, điệu Siri dìu dặt kéo dài,là lời ru con của các bà, các mẹ Raglai trên rẫy trỉa bắp, trồng mì, hái rau rừng; điệu Majêng ngân nga là lời tâm tình của người mẹ với con thơ khi ru bé ngủ; điệu Adoh nhanh, rộn ràng thường được dùng cho những buổi sinh hoạt cộng đồng, những mùa lễ hội...“Mỗi lần nhớ về những bài hát ru của bà, của mẹ, hình ảnh các bậc anh hùng lại hiện lên trong trí tưởng tượng của mình. Họ uy nghi, mạnh mẽ, làm được những việc phi thường, khuấy động đất trời... Mỗi lần nghe lại, mình thêm yêu mến vùng đất này, thêm niềm tự hào về dân tộc đã có được những nét văn hóa đặc sắc”, ông tâm sự. Để rồi, “Những đêm ngồi bên bếp lửa, mình lại nghiền ngẫm từng đoạn, từng câu sử thi. Đoạn nào hay, sống động, mình trích dẫn và soạn thành từng tập nhỏ để hát lại cho thế hệ trẻ nghe. UBND huyện Khánh Sơn và ngành văn hóa cũng đã nỗ lực hoàn chỉnh bộ sưu tầm đàn đá, mở lớp giảng dạy các nhạc cụ, dạy múa, đánh mã la cho thế hệ trẻ. Có thể truyền lại cho thế hệ sau những điều tốt đẹp từ cha ông là niềm vui, hạnh phúc lớn nhất của mình”, nghệ nhân Mấu Quốc Tiến chia sẻ.

Nghệ nhân ưu tú Mấu Quốc Tiến-

Đàn đá – một nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Raglai

Bên cạnh việc sưu tầm, hát các bài hát sử thi, ông còn giỏi đánh đàn Chapi, đánh mã la và tinh thông hầu như mọi nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Những phong tục tập quán, luật tục, tín ngưỡng... của đồng bào mình cũng được ông dày công nghiên cứu. Nguồn gốc, hình thức, ý nghĩa của những nghi lễ của đồng bào Raglai như: lễ mừng lúa mới, bỏ mả, phong tục cưới hỏi xưa kia... ông đều tường tận. Ông có thể trò chuyện cả ngày về hầu hết mọi vấn đề liên quan đến văn hóa của dân tộc mình, vì vậy, mọi người yêu mến, gọi ông là “pho văn hóa sống của đồng bào Raglai”.

Nhớ khi sáng, ngồi cùng với anh Bùi Văn Vinh, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin của huyện; khi trao đổi về công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào Raglai, anh chia sẻ, về công tác sưu tầm, bảo tồn thì không ai qua được nghệ nhân Mấu Quốc Tiến. Dù đã nghỉ hưu, nhưng mỗi khi có hoạt động gì, ngành và huyện đều mời ông tham dự, nhờ ông tư vấn… Cũng nhờ nỗ lực của ông mà UBND huyện đã tổ chức thành công các lớp dạy chữ Raglai cho con em đồng bào mình, mở các lớp dạy sử thi, thành ngữ, tục ngữ cho lớp trẻ, rồi bàn giao mỗi xã một bộ mã la, đàn đá… để đồng bào tập luyện, giữ gìn văn hóa của dân tộc mình. “Bảo tồn văn hóa của đồng bào Raglai thì cái khó nhất là chữ viết, là sử thi thì nghệ nhân Mấu Quốc Tiến đã làm mấy chục năm qua. Trước kia đời sống còn nghèo, nên công tác bảo tồn cũng khó, nay đời sống đã khá hơn, đồng bào cũng ý thức hơn trong công tác bảo tồn, gìn giữ nét văn hóa của đồng bào mình. Các em nhỏ đã ý thức được việc tham gia học chữ viết, học sử thi, học đánh mã la, đàn chapi; mới đây, huyện đã tổ chức bàn giao 7 bộ đàn đá cho các xã, thị trấn, điều này sẽ giúp cho công tác bảo tồn ngày càng mang lại hiệu quả”, ông Vinh chia sẻ.

Cả cuộc đời nghệ nhân Mấu Quốc Tiến dành cho việc sưu tầm, gìn giữ văn hóa của đồng bào mình. Giường như năm nào ông cũng nhận được Giải thưởng, Bằng khen của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, của tỉnh Khánh Hòa cũng như huyện Khánh Sơn. Năm 2005, ông vịnh dự được tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn hóa Thông tin; năm 2009, ông nhận Kỷ niệm chương vì sự nghiệp phát triển các dân tộc; và năm 2011 là Kỷ niệm chương vì sự nghiệp dân gian Việt Nam; Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng năm 2013. “Sang năm là mình nhận huy hiệu 40 năm tuổi Đảng. Mình là đảng viên, mình phải gương mẫu trong việc giữ gìn văn hóa để đồng bào noi theo. Mình sẽ còn làm cho đến khi nào không còn đi được nữa, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay…”, ông chia sẻ.

“Văn hóa được tôn vinh là sức mạnh mềm, là tâm hồn người Việt Nam. Văn hóa là cội nguồn sức mạnh, là sự đoàn kết, sứ giả kết nối mọi người trong cộng đồng. Nếu mình không gìn giữ văn hóa, không gìn giữ các lễ hội, không kết nối mọi người thì đồng bào rất dễ bị chia rẽ, bị kẻ xấu lợi dụng. Vì vậy, mình nỗ lực giữ gìn văn hóa cũng là giữ gìn sợi dây kết nối, đoàn kết của đồng bào...”, tiếng ông trầm lắng mà rõ ràng trong đêm tĩnh mịch.

Tôi chia tay ông khi cơn mưa đã tạm ngớt. Ngoài kia, dòng sông Tô Hạp vẫn thao thiết chảy. Mọi con sông đều chảy về Đông, mà nơi đây, dòng sông Tô Hạp vẫn mải miết ngược dòng, như con đường ngược mà nghệ nhân Mấu Quốc Tiến đang đi. Đó là con đường sưu tầm, giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của đồng bào Raglai…

Nha Trang, tháng 8/2022

THANH LƯƠNG

Ý kiến bạn đọc