Nhiều "điểm nghẽn" trong phát triển văn hóa cần được giải quyết

VHO- Đi thẳng vào các vấn đề “nóng” trong phát triển văn hóa hiện nay, các tham luận tại Hội thảo Văn hóa 2022 đã khẳng định chủ đề và các nội dung của Hội thảo có ý nghĩa thiết thực, tính thời sự cao.

Nhiều

Hội thảo đã tập trung rà soát, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách, đặc biệt là những "điểm nghẽn" cản trở sự phát triển văn hóa

Các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa được bảo đảm tốt hơn

Hội thảo đã tập trung rà soát, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thể chế, chính sách, đặc biệt là những "điểm nghẽn" cản trở sự phát triển văn hóa hiện nay. Đồng thời, đề xuất các chính sách và các giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển văn hóa; làm sáng tỏ các cơ sở chính trị, cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, đề xuất các giải pháp thực hiện kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021.

Thể chế, chính sách và nguồn lực trong phát triển văn hóa là yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa quốc gia, dân tộc. Thể chế đóng vai trò định hướng, dẫn dắt, tạo khuôn khổ cho việc tổ chức, vận hành nền văn hóa quốc gia. Thể chế, chính sách là công cụ hữu hiệu để quản lý phát triển văn hóa; đảm bảo cho việc phân bổ hợp lý các nguồn lực để phát triển văn hóa. Nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là điều kiện cần để xây dựng nền văn hóa quốc gia, dân tộc; là “lực lượng sản xuất” để tạo ra những sản phẩm văn hóa, giá trị văn hóa, trong đó, con người luôn là nguồn lực trung tâm, quan trọng nhất, tạo ra cơ chế, chính sách, là chủ thể quyết định việc khai thác và sử dụng các nguồn lực khác.

Hội thảo nhất trí đánh giá những kết quả đạt được trong công tác xây dựng thể chế, ban hành các chính sách và đảm bảo nguồn lực cho phát triển văn hóa. Trong đó, công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng tiếp tục được quan tâm, đạt nhiều kết quả nổi bật, thể hiện trên một số mặt: Thể chế về văn hóa theo quan điểm của Đảng đã được xác lập nhất quán trong hệ thống pháp luật, khẳng định sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa là của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo và thụ hưởng, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng. Vị trí, vai trò, chức năng, quyền và nghĩa vụ của của các chủ thể tham gia xây dựng, phát triển văn hóa được quy định, tạo lập khung pháp lý thuận lợi để văn hóa phát triển bền vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Nhiều

Hội thảo nhận định, thể chế văn hóa còn chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển

Hệ thống pháp luật đã từng bước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển văn hóa, con người Việt Nam, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đã quy định, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực, khía cạnh của đời sống văn hóa, từ chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người cho tới phát triển toàn diện, đồng bộ môi trường văn hóa, các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa. Các đạo luật được ban hành đều chú trọng tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hướng tới mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Chất lượng, hiệu lực pháp lý của các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa từng bước nâng cao, hạn chế được tình trạng "luật khung, luật ống".

Hệ thống thiết chế văn hóa, tổ chức bộ máy quản lý văn hóa và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa từng bước được kiện toàn và củng cố. Đã bước đầu chú trọng nâng cao năng lực, đổi mới phương thức quản lý, nhằm thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, tinh thần.

Nhiều chính sách văn hóa đã được ban hành, tác động tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực văn hóa, tập trung vào các vấn đề lớn về: Phát triển con người Việt Nam toàn diện; xây dựng môi trường văn hóa, các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa, thiết chế văn hóa; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa; xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; xã hội hóa hoạt động văn hóa; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Khuyến khích nâng cao sự tham gia và hưởng thụ văn hóa cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp dễ bị tổn thương; khuyến khích hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Nguồn nhân lực và các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa được bảo đảm tốt hơn. Trong đó, nguồn nhân lực về văn hóa được quan tâm, hệ thống các trường đào tạo về văn hóa ngày càng được đầu tư nhiều hơn. Cả nước có 40 trường trung cấp, cao đẳng, đại học đào tạo lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, 3 Viện nghiên cứu đào tạo tiến sĩ, khoảng 80 cơ sở đào tạo công lập và tư thục tham gia đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho các ngành các ngành thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Chính sách đãi ngộ, hỗ trợ đội ngũ văn nghệ sĩ đã được ban hành và dần được hoàn thiện.

Nhiều

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Tạ Quang Đông cho rằng cần có những thay đổi về ưu đãi thuế để huy động được nguồn lực phát triển văn hóa

Nguồn lực tài chính và tài sản công đầu tư cho văn hóa có xu hướng gia tăng. Nhà nước đã tập trung nguồn lực để phát triển sự nghiệp văn hóa từ nguồn chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Nguồn chi thường xuyên của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cho lĩnh vực văn hóa có xu hướng tăng trong 5 năm gần đây (2018- 2022), trung bình khoảng 10.500 tỉ/năm, chiếm khoảng 1,57% trong tổng chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Nguồn chi đầu tư được xác định khoảng 1,6 - 1,7%  so với tổng chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và tăng dần theo từng giai đoạn. Ngoài ra, lĩnh vực văn hóa được đầu tư thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa (2001- 2015), Chương trình mục tiêu về văn hóa (2015-2020) ; các chương trình mục tiêu Quốc gia khác (giai đoạn 2020-2025) .

Các chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa được ban hành, đã tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động các nguồn lực xã hội; bước đầu khai thác, phát huy có hiệu quả trên một số lĩnh vực như: bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; đầu tư, xây dựng thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa; các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân (mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn,…). Việc đổi mới, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước  trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, góp phần huy động hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội.

Thể chế văn hóa còn chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển

Tuy nhiên, thể chế văn hóa còn chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển. Hệ thống pháp luật liên quan tới lĩnh vực văn hóa còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, một số quy định nhanh chóng bị lạc hậu. Nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý và tính quy phạm thấp, quy định chưa cụ thể, mang tính tuyên ngôn, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể làm căn cứ pháp lý để các chủ thể thực hiện. Nhiều lĩnh vực văn hóa chưa có Luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh (nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế văn hóa, tuyên truyền cổ động chính trị, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sỹ...), thậm chí chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh (như lĩnh vực văn học, quản lý hoạt động trò chơi...).

Nhiều

Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Phan Thanh Hải cho biết, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế luôn luôn xem văn hóa di sản là thế mạnh và ưu tiên nguồn lực để phát triển văn hóa

Một số vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn chậm được thể chế hóa. Việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về văn hóa còn yếu nên nhiều quy phạm pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống. Việc thực thi nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa còn lúng túng (Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định nghệ thuật biểu diễn...). Thể chế về tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp nói chung và trong lĩnh vực văn hóa chậm được hoàn thiện.

Hệ thống chính sách về văn hóa còn nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp. Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa chưa bao quát được toàn bộ vốn di sản văn hóa dân tộc; có trường hợp chưa cụ thể, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc. Chính sách đối với văn học, nghệ thuật chưa tạo được sự đột phá, chú trọng, chưa đầy đủ tính đặc thù của văn học, nghệ thuật; có trường hợp chưa hiệu quả.

Cơ chế, chính sách phát triển hệ thống thiết chế văn hóa vẫn chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân; hệ thống thiết chế văn hóa còn thiếu, hoạt động kém hiệu quả, lãng phí. Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số còn ít, kém đồng bộ. Một số chính sách chưa phù hợp với đặc thù vùng, tộc người; thiếu các chính sách quản lý đặc thù.

Chính sách khuyến khích sáng tạo chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, còn nhiều vướng mắc, cản trở sự sáng tạo văn hóa khi sử dụng ngân sách nhà nước. Chính sách cho phát triển công nghiệp văn hóa chậm được ban hành, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn phát triển manh mún. Một số cơ chế, chính sách về xây dựng, bảo vệ môi trường văn hóa thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, quy chuẩn, tính ổn định chưa cao; chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm. Cơ chế, chính sách xây dựng văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, chưa thực sự tạo nhiều ưu đãi, hiệu quả huy động các nguồn lực xã hội chưa cao; chưa khắc phục được  tâm lý trông chờ vào kinh phí của Nhà nước. Chính sách phát triển hệ thống trợ giúp thống kê, đánh giá, giám sát, hoạch định chính sách về văn hóa chưa được quan tâm.

Nhiều

Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam Christian Manhart đánh giá cao Việt Nam khi đã đặt văn hóa là trung tâm trong kế hoạch phát triển quốc gia bảo đảm công bằng và bền vững

Các chính sách ưu đãi, khuyến khích các thành phần xã hội tham gia đầu tư phát triển văn hóa như miễn, giảm thuế, ghi công cho các khoản đóng góp, tài trợ… còn hạn chế, chưa thực sự tạo ra động lực cho các chủ thể tham gia phát triển văn hóa. Cơ chế tài chính chưa khuyến khích sự sáng tạo, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Chính sách ưu đãi đầu tư, thuế, tín dụng, đất đai cho phát triển sự nghiệp văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Luật Đầu tư và Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư thì lĩnh vực văn hóa chưa phải là ngành, nghề được ưu tiên khuyến khích. Hiệu lực của các quy định về chính sách thuế để phát triển một số ngành, lĩnh vực văn hóa như: di sản văn hóa, điện ảnh… không cao, chỉ mang tính nguyên tắc trong các Luật chuyên ngành; việc áp dụng phụ thuộc vào các quy định cụ thể của từng đạo Luật về thuế. Các trường hợp miễn thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp còn chưa đầy đủ, chưa tạo điều kiện cho các cơ sở đang thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa. Chậm hình thành các quỹ hỗ trợ trong lĩnh vực văn hóa (đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản…).

Nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ làm công tác văn hóa còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Việc phát triển nguồn nhân lực văn hóa gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa phải tinh giản biên chế, tinh gọn tổ chức. Số lượng viên chức trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao có trình độ cao ngày càng ít đi. Bố trí, sắp xếp công việc đối với cán bộ cơ sở làm công tác văn hóa chưa hợp lý. Việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực văn hóa gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Nhiều chuyên ngành về văn hóa, nghệ thuật truyền thống hiện nay rất khó tuyển sinh.

Nguồn lực nhà nước đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế, tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của văn hóa. Cơ chế tài chính chưa khuyến khích sự sáng tạo, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Các chính sách khuyến khích xã hội hóa chưa thực sự tạo ra động lực phát huy các tiềm năng sáng tạo văn hóa của nhân dân, chưa chú trọng vai trò quản lý của Nhà nước. Huy động nguồn lực tư nhân và xã hội tham gia phát triển văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các khu vực miền núi, hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

THÚY HÀ - THU TRANG; ảnh: TRẦN HUẤN

Ý kiến bạn đọc